Chú ý đến hội chứng nguy kịch suy hô hấp ở trẻ sinh non.
Những ghi nhận đầu tiên về bệnh màng trong được các bác sĩ sản khoa ở Anh, Pháp và Đức thực hiện vào cuối thế kỷ 18. Nhiều nhà khoa học, bao gồm sinh lý học và bác sĩ, đã nghiên cứu nguyên nhân gây suy hô hấp nặng ở trẻ sơ sinh non tháng, nhưng nhiều giả thuyết đưa ra đã dẫn đến các phương pháp điều trị sai lầm. Mary Allen Avery, bác sĩ nhi khoa người Mỹ, sinh năm 1927 và mất năm 2011, là một trong bốn nữ sinh viên của lớp 90 tại ĐH John Hopkins. Sau khi tốt nghiệp, bà mắc lao phổi và đã tự điều trị, rồi tiếp tục chương trình nội trú với học bổng nghiên cứu nhi khoa tại ĐH Harvard.
Buổi tối, bà làm việc tại phòng sanh và nhận thấy nhiều trẻ non tháng chết vì suy hô hấp. Bà đã mổ phổi những trẻ này và so sánh với phổi động vật thí nghiệm, nghi ngờ rằng phổi trẻ sinh non thiếu một chất quan trọng. Năm 1963, con trai tổng thống John F. Kennedy qua đời vì bệnh màng trong, thúc đẩy nghiên cứu về căn bệnh này. Bệnh màng trong là hội chứng nguy hiểm cho trẻ sơ sinh, đặc biệt trong 7 ngày đầu sau sinh, có thể gây tử vong nếu không được chẩn đoán và can thiệp kịp thời. Trẻ sơ sinh non tháng có nguy cơ cao mắc hội chứng này do thiếu surfactant và phổi chưa trưởng thành. Bệnh thường xuất hiện ngay sau sinh với triệu chứng suy hô hấp nặng và rất ít trẻ mắc bệnh được cứu sống.
Tại Việt Nam, tỷ lệ tử vong do bệnh này chỉ đứng sau chảy máu phổi. Một em bé sinh non đang được chăm sóc tại Bệnh viện Từ Dũ. Phổi bình thường có chất surfactant trong phế nang để ngăn ngừa xẹp phế nang. Tuy nhiên, ở trẻ sinh non, phổi chưa phát triển đầy đủ, dẫn đến thiếu surfactant, khiến phế nang xẹp và huyết tương tràn vào phế nang, tạo thành một lớp màng cản trở lưu thông khí và gây suy hô hấp, có thể dẫn đến tử vong nhanh chóng. Để phòng ngừa, mẹ bầu cần kiểm soát tốt bệnh đái tháo đường, hạn chế dùng corticoid, duy trì sức khỏe và chế độ dinh dưỡng hợp lý, thường xuyên khám thai để giảm nguy cơ sinh non. Sản phụ nên sinh tại cơ sở y tế có sự hỗ trợ của nữ hộ sinh hoặc bác sĩ chuyên môn.
Sau sinh, sản phụ và người chăm sóc cần biết cách theo dõi và phòng tránh suy hô hấp ở trẻ sơ sinh. Đối với trẻ sinh non, nhẹ cân, cần bơm surfactant vào phổi qua ống nội khí quản để ngăn ngừa bệnh màng trong. Các yếu tố nguy cơ bao gồm: trẻ sinh non dưới 28 tuần (tỷ lệ mắc 50-60% nếu cân nặng dưới 1.000g hoặc sinh đôi), mẹ có biến chứng trong khi chuyển dạ như băng huyết hay ngạt thai, và mẹ có bệnh lý như tiểu đường hoặc sử dụng corticoid kéo dài. Bệnh màng trong thường xuất hiện từ vài phút đến hai giờ sau sinh, với triệu chứng chính là hội chứng suy hô hấp nặng, khó thở, thở nhanh, co kéo các cơ hô hấp, và tím tái toàn thân dù đã thở ôxy.
Trẻ ở thể nhẹ có thể hồi phục sau 72 giờ điều trị đúng cách, trong khi trẻ thể nặng có nguy cơ tử vong cao nếu không được can thiệp kịp thời. Nếu sống sót, trẻ có thể gặp di chứng như thiếu ôxy não. Trẻ đủ tháng có tỷ lệ hồi phục tốt hơn trẻ thiếu tháng. Bệnh nhân cần được điều trị trong bệnh viện, giữ ấm trong lồng ấp, truyền dịch và sử dụng surfactant qua ống nội khí quản. BS.CKII. Nguyễn Thị Từ Anh cho rằng ngoài các biện pháp điều trị triệu chứng, việc sử dụng surfactant có thể giảm 50% tỷ lệ tử vong và các biến chứng liên quan.
Liệu pháp Surfactant không chỉ giảm tỷ lệ mắc hội chứng loạn sản phế quản - phổi mà còn cải thiện chất lượng điều trị cho trẻ sinh non. Theo BS. Từ Anh, nghiên cứu lâm sàng đầu tiên vào thập niên 70 đã mở đường cho việc sử dụng surfactant trong điều trị trẻ sơ sinh non tháng.
Source: https://afamily.vn/can-trong-voi-hoi-chung-nguy-kich-suy-ho-hap-tre-sinh-non-20190613232610707.chn